Q. Chương trình môn Hóa Học được xây dựng dựa trên những quan điểm nào?
Chương trình môn Hoá học tuân thủ đầy đủ các quy định được nêu trong Chương trình tổng thể, đồng thời, xuất phát từ đặc điểm môn học, việc xây dựng chương trình môn Hóa học: Bảo đảm tính kế thừa và phát triển; tính thực tiễn; thực hiện yêu cầu định hướng nghề nghiệp và đổi mới phương pháp dạy học phát huy tính tích cực của học sinh.
- Môn Hoá học kế thừa và phát huy ưu điểm của chương trình hiện hành, tiếp thu kinh nghiệm xây dựng chương trình môn học của các nước có nền giáo dục tiên tiến trên thế giới và trong khu vực; phù hợp với trình độ nhận thức, tâm sinh lí lứa tuổi của học sinh, có tính đến điều kiện kinh tế và xã hội Việt Nam. Môn Hoá học chú trọng trang bị cho học sinh các kiến thức cơ sở hoá học chung về cấu tạo, tính chất và ứng dụng của các đơn chất và hợp chất để học sinh giải thích được bản chất của quá trình biến đổi hoá học ở mức độ cần thiết.
- Môn Hoá học đề cao tính thực tiễn; tránh khuynh hướng thiên về tính toán; chú trọng trang bị các khái niệm công cụ và phương pháp sử dụng công cụ, đặc biệt là giúp học sinh có kĩ năng thực hành thí nghiệm, kĩ năng vận dụng các tri thức hoá học vào việc tìm hiểu và giải quyết ở mức độ nhất định một số vấn đề của thực tiễn, đáp ứng được yêu cầu của cuộc sống.
- Môn Hoá học cụ thể hoá mục tiêu giáo dục định hướng nghề nghiệp. Trên cơ sở xác định các lĩnh vực ngành nghề và quá trình công nghệ đòi hỏi tri thức hoá học chuyên sâu, chương trình lựa chọn nội dung giáo dục cốt lõi và các chuyên đề học tập, giúp học sinh tìm hiểu sâu hơn các tri thức hoá học có nhiều ứng dụng trong thực tiễn, có tác dụng chuẩn bị cho định hướng nghề nghiệp.
- Các phương pháp giáo dục của môn Hoá học góp phần phát huy tính tích cực, chủ động và sáng tạo của học sinh, nhằm hình thành năng lực hoá học, cũng như góp phần hình thành và phát triển các phẩm chất chủ yếu và năng lực chung được quy định trong Chương trình tổng thể.
Q. Đặc điểm của Chương trình giáo dục môn Hóa học?
Trong chương trình giáo dục phổ thông, Hoá học là môn học thuộc nhóm môn khoa học tự nhiên ở cấp trung học phổ thông, được học sinh lựa chọn theo định hướng nghề nghiệp, sở thích và năng lực của bản thân.
Nội dung môn Hoá học được thiết kế thành các chủ đề vừa bảo đảm củng cố các mạch nội dung, phát triển kiến thức và kĩ năng thực hành vừa giúp học sinh có hiểu biết sâu sắc hơn về các kiến thức cơ sở chung của hoá học, làm cơ sở để học tập, làm việc, nghiên cứu. Trong mỗi năm học, những học sinh có định hướng nghề nghiệp cần sử dụng nhiều kiến thức hoá học được chọn ba chuyên đề học tập phù hợp với nguyện vọng của bản thân và điều kiện tổ chức của nhà trường. Các chuyên đề này nhằm thực hiện yêu cầu phân hoá sâu, giúp học sinh tăng cường kiến thức và kĩ năng thực hành, vận dụng kiến thức giải quyết những vấn đề của thực tiễn, giúp học sinh hình thành và phát triển năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo, đáp ứng yêu cầu định hướng nghề nghiệp.
Q. Mục tiêu của chương trình môn Hóa Học là gì?
Mục tiêu giáo dục của môn Hoá học là hình thành, phát triển ở học sinh năng lực hoá học; đồng thời góp phần cùng các môn học, hoạt động giáo dục khác hình thành, phát triển ở học sinh các phẩm chất chủ yếu và năng lực chung, đặc biệt là thế giới quan khoa học; hứng thú học tập, nghiên cứu; tính trung thực; thái độ tôn trọng các quy luật của thiên nhiên, ứng xử với thiên nhiên phù hợp với yêu cầu phát triển bền vững; khả năng lựa chọn nghề nghiệp phù hợp với năng lực và sở thích, điều kiện và hoàn cảnh của bản thân.
Q. Mục tiêu định hướng nghề nghiệp được thể hiện trong chương trình môn Hóa Học như thế nào?
- Một trong những mục tiêu của chương trình môn Hóa học là giúp học sinh nhận biết được năng lực, sở trường của bản thân, định hướng được nghề nghiệp và có kế hoạch học tập, rèn luyện đáp ứng yêu cầu của định hướng nghề nghiệp. Mục tiêu này được thực hiện xuyên suốt trong toàn bộ chương trình từ nội dung, kế hoạch dạy học cho đến kiểm tra, đánh giá, dưới các góc độ khác nhau.
- Trong mỗi chủ đề học sinh đều tìm hiểu được một số ngành nghề liên quan đến nội dung mà chủ đề đề cập. Chương trình đã mô tả một cách rõ ràng cấu trúc của thành phần năng lực vận dụng kiến thức, kĩ năng trong thực tiễn; tạo điều kiện thuận tiện cho giáo viên giúp học sinh hình thành và định hướng được ngành nghề sẽ lựa chọn.
- Trong số các chuyên đề học tập, một số chuyên đề nhằm định hướng ngành nghề cho học sinh. Ví dụ chuyên đề “Trải nghiệm, thực hành hóa vô cơ” giới thiệu và hướng dẫn học sinh tìm hiểu về các ngành nghề có liên quan đến Hóa học, ngành nghề gắn với địa phương, qua đó giúp học sinh hình dung được phần nào bức tranh ứng dụng Hóa học trong thực tiễn, hiểu được tầm quan trọng của Hóa học trong cuộc sống và có ý tưởng chính về các chủ đề Hóa học sẽ được tìm hiểu trong chương trình trung học phổ thông. Với các ngành nghề chưa có điều kiện cho học sinh thực hành (vì trang thiết bị phổ thông chưa đáp ứng được) thì có thể dùng học liệu đa phương tiện để giới thiệu một số quy trình công nghệ và tạo điều kiện để học sinh tham quan các cơ sở ứng dụng công nghệ hiện đại.
Q. Môn Hóa học đóng góp gì trong việc bồi dưỡng phẩm chất, phát triển năng lực chung và năng lực đặc thù cho học sinh?
Môn Hóa học góp phần hình thành và phát triển phẩm chất chủ yếu và năng lực chung theo các mức độ phù hợp với môn học, cấp học đã được quy định trong Chương trình tổng thể. Đồng thời, hình thành và phát triển ở học sinh năng lực hóa học, biểu hiện của năng lực khoa học tự nhiên, bao gồm các thành phần năng lực: năng lực nhận thức hóa học; năng lực tìm hiểu thế giới tự nhiên dưới góc độ hóa học; năng lực vận dụng kiến thức, kĩ năng đã học.
Tất cả những phẩm chất và năng lực đó đó được giáo dục, hình thành theo cách tích hợp xuyên suốt các chủ đề nội dung môn Hóa học.
Q. Chương trình môn Hóa học gồm các mạch nào?
Chương trình môn Hóa học với 3 mạch nội dung cốt lõi: Kiến thức cơ sở hóa học chung; hóa học vô cơ và hóa học hữu cơ.
+ Trục phát triển chính của Chương trình môn Hóa học là hệ thống các kiến thức cơ sở hóa học chung về cấu tạo chất và quá trình biến đổi hoá học. Các kiến thức về cấu tạo của nguyên tử, liên kết hóa học, năng lượng hóa học, tốc độ phản ứng hóa học, phản ứng oxi – hóa khử, cân bằng hóa học, pin điện và điện phân, bảng tuần hoàn các nguyên tố hóa học là cơ sở lí thuyết chủ đạo để học sinh giải thích được bản chất, nghiên cứu được quy luật hoá học ở các nội dung hoá học vô cơ và hoá học hữu cơ ở mức độ nhất định.
+ Mạch nội dung kiến thức Hoá học vô cơ bao gồm các chủ
đề: Nguyên tố nhómVIIA; Nitrogen và Sulfur; Pin điện và
điện phân; Đại cương về kim loại; Nguyên tố nhóm IA và
nhóm IIA; Sơ lược về dãy kim loại chuyển tiếp thứ nhất và phức chất
+ Mạch nội dung kiến thức Hoá học hữu cơ bao gồm các chủ đề: Đại cương về hoá học hữu cơ; Hydrocarbon; Dẫn xuất halogen, Alcohol –Phenol; Hợp chất carbonyl (Aldehyde – Ketone) - Carboxylic acid ; Ester – Lipid; Carbohydrate; Hợp chất chứa nitrogen; Polymer;
Q. Cùng với nội dung giáo dục cốt lõi, Chương trình môn Hóa học còn chú ý tới những nội dung nào khác?
Bên cạnh nội dung giáo dục cốt lõi (70 tiết/lớp/năm), trong mỗi năm học, những học sinh có thiên hướng khoa học tự nhiên và công nghệ được chọn học một số chuyên đề (35 tiết/lớp/năm). Mục tiêu của các chuyên đề này là nhằm thực hiện yêu cầu phân hoá sâu, mở rộng nâng cao kiến thức; Tăng cường rèn luyện kĩ năng thực hành, hoạt động trải nghiệm thực tế làm cơ sở giúp học sinh hiểu rõ hơn các quy trình kĩ thuật, công nghệ thuộc các ngành nghề liên quan đến hoá học. Giúp học sinh hiểu sâu hơn vai trò của hoá học trong đời sống thực tế, những ngành nghề có liên quan đến hoá học để học sinh có cơ sở định hướng nghề nghiệp sau này cũng như có đủ năng lực để giải quyết những vấn đề có liên quan đến hoá học và tiếp tục tự học hoá học suốt đời.
Q. Điểm mới nổi bật nhất của chương trình môn Hóa học là gì?
Điểm mới quan trọng nhất trong chương trình môn Hóa học là đề cao tính thực tiễn; tránh khuynh hướng thiên về tính toán; chú trọng trang bị các khái niệm công cụ và phương pháp sử dụng công cụ, đặc biệt là giúp học sinh có kĩ năng thực hành thí nghiệm, kĩ năng vận dụng các tri thức hoá học vào việc tìm hiểu và giải quyết ở mức độ nhất định một số vấn đề của thực tiễn, đáp ứng được yêu cầu của cuộc sống.
Q. Chương trình môn Hóa học được giảm tải như thế nào?
- Sự giảm tải thể hiện ở một số nội dung được tinh giản, rút gọn, như: Không học riêng các nguyên tố oxygen, phosphorus, carbon-silicon; lược bỏ bài nhôm – sắt; nitric acid; phân biệt một số chất vô cơ;... mà lồng ghép các nội dung thiết thực liên quan trong một số chủ đề.
- Chương trình có sự cập nhật kịp thời, thể hiện ở việc bổ sung chủ đề: Sơ lược về dãy kim loại chuyển tiếp thứ nhất và phức chất.
- Trong phần Hoá học hữu cơ về cơ bản giống chương trình hiện hành gồm: Đại cương về hoá học hữu cơ; Hydrocarbon; Dẫn xuất halogen – Alcohol – Phenol; Hợp chất carbonyl (Aldehyde – Ketone) – Carboxylic acid, Ester – Lipid; Carbohydrate; Hợp chất chứa nitrogen; Polymer. Tuy nhiên có lược bỏ một số nội dung của đại cương hữu cơ (danh pháp, phân loại phản ứng hữu cơ, phân tích nguyên tố), bỏ cycloalkane, alkadiene, terpene và một số nội dung của hydrocarbon thơm (styrene, naphthalene). Bổ sung phổ khối, phổ hồng ngoại và phương pháp điện di.
Q. Giáo viên có thể gặp những khó khăn gì khi dạy chương trình Hóa học? Cách khắc phục những khó khăn?
Khó khăn lớn nhất của giáo viên khi dạy chương trình mới là việc vận dụng các phương pháp dạy học hiện đại, tích cực; nhất là trong điều kiện lớp đông học sinh, thiết bị dạy học không đồng bộ, khó áp dụng được các phương pháp tổ chức dạy học tích cực. Mặt khác, thói quen tập trung vào việc truyền thụ kiến thức, chưa chú ý đúng mức đến rèn luyện kĩ năng là một trở ngại lớn khi thực hiện chương trình phát triển năng lực. Hơn nữa, kiểm tra, đánh giá năng lực học sinh là vấn đề mới và khó với nhiều giáo viên.
Để giúp giáo viên khắc phục những khó khăn trên, cần có sự thay đổi về chất việc kiểm tra đánh giá và các kì thi; tổ chức tập huấn, đặc biệt là tập huấn bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ về dạy học phát triển năng lực. Đồng thời, cách quản lí khoa học và hiệu quả các hoạt động giáo dục của lãnh đạo các nhà trường cùng với sự nỗ lực của mỗi giáo viên trong hoạt động học tập, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ có vai trò quyết định đối với việc khắc phục các khó khăn có thể gặp khi thực hiện chương trình mới.
Q. Thuật ngữ và danh pháp hóa học trong Chương trình môn Hóa học được sử dụng như thế nào?
Việc sử dụng thuật ngữ hóa học và danh pháp hóa học trong văn bản chương trình môn Hóa học tuân theo các quy tắc sau:
- Nguyên tắc khoa học: Khái niệm mà thuật ngữ biểu thị phải được cập nhật phù hợp với sự pháttriển của khoa học thế giới; hình thức của thuật ngữ phải bảo đảm tính hệ thống.
- Nguyên tắc thống nhất: Thuật ngữ phải có cách hiểu thống nhấttrong toàn bộ Chương trình mônHoá hoc và Chương trình giáo dục phổ thông nói chung.
- Nguyên tắc hội nhập: Danh pháp hoá học sử dụng theo khuyến nghị của Liên minh Quốc tế về Hoá học thuần tuý và Hoá học ứng dụng IUPAC (International Union of Pure and Applied Chemistry) có tham khảo Tiêu chuẩn Việt Nam (TCVN 5529:2010 và 5530:2010 của Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng, Quyết định số 2950- QĐ/BKHCN của Bộ Khoa học và Công nghệ), phù hợp với thực tiễn Việt Nam, từng bước đáp ứng yêu cầu thống nhất và hội nhập.
- Nguyên tắc thực tế: Sử dụng tên 13 nguyên tố đã quen dùng trong tiếngViệt: vàng, bạc, đồng, chì, sắt, nhôm, kẽm, lưu huỳnh, thiếc, nitơ, natri, kali và thuỷ ngân; đồng thời có chú thích thuật ngữ tiếng Anh để tiện tra cứu. Hợp chất của các nguyên tố này được gọi tên theo khuyến nghị của IUPAC.
Q. Tại sao phải đưa phần cơ sở hoá học chung vào chương trình Hoá học trung học phổ thông? Như vậy có nặng quá với giáo viên và học sinh không?
- Trọng tâm của hoá học là những vấn đề xung quanh và liên quan đến phương trình phản ứng hoá học. Vậy khi cho một phản ứng hoá học, câu hỏi đặt ra là phản ứng có xảy ra được không? Mức độ phản ứng thế nào? Vấn đề này trong chương trình trước đây chưa được chú trọng, hầu như học sinh học được (loại) phản ứng nào là nhớ phản ứng đó, sẽ không thể suy luận được nếu gặp phải (loại) phản ứng mới, do vậy hầu như không vận dụng được kiến thức hoá học vào thực tiễn.
- Trong Chương trình môn Hóa học, phần cơ sở hoá học chung được đặt chủ yếu ở lớp 10 sẽ trang bị kiến thức nền tảng để học sinh tiếp cận có bản chất, có quy luật đến những vấn đề thuộc chương trình hóa học vô cơ và hóa học hữu cơ. Kiến thức phần này gồm 2 phần chính: cấu tạo chất, gồm cấu tạo nguyên tử, phân tử (liên kết hóa học), từ cấu tạo sẽ suy luận được tính chất (vật li,́ hoá học; quá trình hoá học: xem xét phản ứng có xảy ra hay không, mức độ phản ứng).
- Về mức độ kiến thức vẫn đảm bảo nhẹ nhàng, đơn giản. Phần Cấu tạo chất gần như chương trình hiện hành; Phần quá trình hoá học, chủ yếu là tính enthalpy của một phản ứng hoá học (enthalpy của một phản ứng hoá học (kí hiệu ∆rH) chính là nhiệt kèm theo phản ứng đó trong điều kiện nhiệt độ và áp suất xác định, không đổi.Nếu phản ứng tỏa nhiệtthì ∆rH< 0;thu nhiệt ∆rH > 0) chỉ ở mức độ áp dụng công thức từ bảng số liệu cho sẵn. Như vậy HS chỉ cần nhớ công thức tính là vận dụng được ngay.
Q. Nội dung Hoá học vô cơ trong Chương trình hoá học THPT có một số đặc điểm cơ bản nào?
Nội dung Hoá học vô cơ trong chương trình đã được thiết kế với một số đặc điểm cụ thể sau: Hoá học kết nối vớithực tiễn sản xuất,thiết thực, sức khỏe và môi trường, tinh giảm so với Chương trình hiện hành (lược bỏ một số bài riêng biệt như bài nitric acid, nhôm, sắt…); Bảo đảm yêu cầu cơ bản và hiện đại, với việc cập nhật nội dung hiện đại ở mức độ cơ bản như: xu hướng biến đổi một số tính chất của kim loại chuyển tiếp, đại cương về phức chất… Việc kết nối kiến thức Cơ sở hóa học chung với Hóa học vô cơ được thể hiện xuyên suốt trong quá trình xây dựng chương trình, nhằm khắc họa vai trò của Cơ sở hóa học chung và tăng cường hứng thú học tập Hóa học vô cơ (và Hóa học hữu cơ) cho học sinh...
Q. Tại sao đưa phương pháp phổ khối lượng (MS) vào Chương trình môn Hoá học bậcTrung học phổ thông?
Phương pháp phổ khối lượng (MS) được biết từ giữa thế kỉ XIX, khi các nhà khoa học nghiên cứu bản chất của vật chất liên quan đến hiện tượng tia âm cực và tia dương cực. Kể từ đó phương pháp phổ MS được sử dụng để nghiên cứu đồng vị của các nguyên tố. Đến giữa thế kỉ XX, phương pháp phổ MS được phát triển kết hợp với phương pháp sắc kíkhí. Kể từ đó nó được sử dụng một cách rất hữu ích trong việc nghiên cứu các hợp chất hữu cơ. Trước đây, việc xác định phân tử khối của hợp chất hữu cơ dựa vào việc đo độ hạ nhiệt độ đông đặc (phương pháp nghiệm lạnh) hay dựa vào việc đo độ tăng của nhiệt độ sôi (phương pháp nghiệm sôi). Các phương pháp này mất nhiều thời gian, công sức và sai số lớn. Nhờ dựa vào khối lượng các đồng vị cho nên phương pháp phổ MS cho biết chính xác khối lượng chất cần xác định và đưa ra chính xác công thức phân tử của chất nghiên cứu. Phương pháp phổ MS tự động, dựa trên các thiết bị máy móc hiện đại nên việc phân tích đơn giản, nhanh và chính xác. Hiện nay, các máy đo phổ MS có ngân hàng cơ sở dữ liệu nên ngoài việc cho biết công thức phân tử của chất nghiên cứu, nó còn cóthểcho biết luôn công thức cấu tạo của chất đó. Đối với chất chưa có trong cơ sở dữ liệu (chất mới) máy đo có thể đề xuất các cấu trúc có thể có của nó. Kết hợp với các phương pháp phân tích khác (ví dụ: phổ hồng ngoại Ir và phổ cộng hưởng từ hạt nhân NMr) có thể xác định chính xác cấu trúc chất cần nghiên cứu. Trong chương trình Hoá học các nước tiên tiến (Anh, Mỹ, Singapore, Úc…), phương pháp phổ MS đã được đưa vào từ lâu. Học sinh trung học phổ thông được trang bị thêm các phương tiện nghiên cứu, đáp ứng một phần nhu cầu nghiên cứu khoa học của các em. Ngoài ra, đưa phương pháp phổ MS góp phần đưa hoá học trở về đúng bản chất của nó, hạn chế những bài tập kiểu đốt cháy tràn lan và thiếu thực tế hiện nay.
Q. Tại sao lại đưa phương pháp phổ hồng ngoại (Ir) vào chương trình môn Hoá học bậc Trung học phổ thông?
Nếu như phương pháp phổ MS cho biết khối lượng phân tử dễ dàng, chính xác thì phương pháp phổ hồng ngoại cho biết các nhóm chức có trong phân tử của chất nghiên cứu. Đối với chất không quá phức tạp, kết hợp với tính chất vật lí, hóa học của chất nghiên cứu cho phép ta xác định được công thức cấu tạo của chất. Việc đưa phương pháp phân tích như phổ MS và Ir vừa thể hiện tính cập nhật với các chương trình các nước tiên tiến, vừa thể hiện tính hiện đại, vừa góp phần sửa chữa các bất cập đang tồn tại trong việc giảng dạy hóa học và thi cử hiện nay. Ở cấp trung học phổ thông, chỉ cần yêu cầu học sinh sử dụng bảng tín hiệu của các nhóm chức để xác định công thức cấu tạo của chất. Đối với học sinh khá giỏi, có thể nâng cao yêu cầu hơn, như cho phổ Ir để xác định tín hiệu của nhóm chức từ đó mới xác định công thức cấu tạo của hợp chất hữu cơ. Cũng có thể cho phổ Ir của chất ban đầu, chất cuối để xác định chất phản ứng và sản phẩm tạo thành…
Q. Năng lực hóa học gồm những thành phần nào? Làm thế nào để hình thành, phát triển năng lực hóa học cho học sinh?
Môn Hoá học hình thành và phát triển ở học sinh năng lực hóa học bao gồm các năng lực thành phần sau: năng lực nhận thức hóa học; năng lực tìm hiểu thế giới tự nhiên dưới góc độ hóa học; năng lực vận dụng kiến thức, kĩ năng đã học. Trong đó, năng lực nhận thức hoá học được thể hiện qua khả năng nhận thức được các kiến thức cơ sở về cấu tạo chất; các quá trình hoá học; các dạng năng lượng và bảo toàn năng lượng; một số chất hoá học cơ bản và chuyển hoá hoá học; một số ứng dụng của hoá học trong đời sống và sản xuất. Năng lực tìm hiểu thế giới tự nhiên dưới góc độ hoá học được thể hiện qua khả năng quan sát, thu thập thông tin; phân tích, xử lí số liệu; giải thích; dự đoán được kết quả nghiên cứu một số sự vật, hiện tượng trong tự nhiên và đời sống. Năng lực vận dụng kiến thức, kĩ năng đã học thể hiện qua khả năng vận dụng được kiến thức, kĩ năng hoá học vào một số tình huống cụ thể trong thực tiễn; mô tả, dự đoán, giải thích hiện tượng, giải quyết các vấn đề một cách khoa học; khả năng ứng xử thích hợp trong các tình huống có liên quan đến bản thân, gia đình và cộng đồng; ứng xử với tự nhiên phù hợp với yêu cầu phát triển bền vững xã hội và bảo vệ môi trường...
Q. Phương pháp giáo dục môn Hóa học cần thay đổi như thế nào để đạt yêu cầu định hướng tiếp cận năng lực?
Việc đổi mới phương pháp dạy học hóa học theo hướng tiếp cận năng lực là trọng tâm của Chương trình. Chương trình giáo dục môn Hóa học đặc biệt chú trọng định hướng phát triển năng lực thông qua thiết kế hoạt động dạy học cho mỗi nội dung, mỗi chủ đề học tập. Các phương pháp giáo dục chủ yếu được lựa chọn theo các định hướng sau:
+ Định hướng hoạt động: Các hoạt động học tập của học sinh dựa trên các hoạt động trải nghiệm; Vận dụng, gắn kết với thực tiễn và định hướng giải quyết các vấn đề thực tiễn nhằm nâng cao sự hứng thú của học sinh, góp phần hình thành và phát triển phẩm chất và năng lực cho học sinh mà môn học đảm nhiệm.
+ Định hướng dạy học tích cực: Tăng cường sử dụng các phương pháp dạy học nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và phù hợp với sự hình thành và phát triển phẩm chất, năng lực cho người học. Tăng cường thực hành, trải nghiệm trong các nội dung dạy học đặc biệt khi nghiên cứu về các chất vô cơ, hữu cơ có nhiều ứng dụng trong thực tiễn thông qua các dự án học tập.
+ Kết hợp giáo dục STEM trong dạy học nhằm phát triển cho học sinh khả năng tích hợp các kiến thức kỹ năng của các môn học Toán – Kỹ thuật – Công nghệ và Hoá học vào việc nghiên cứu giải quyết một số tình huống thực tiễn.
+ Sử dụng các bài tập hoá học đòi hỏi tư duy phản biện, sáng tạo (bài tập mở, có nhiều cách giải,...), các bài tập có nội dung gắn với thực tiễn, tăng cường bản chất hoá học, giảm các bài tập nặng về tính toán toán học.
+ Đa dạng hoá các hình thức học tập, sử dụng công nghệ thông tin và các thiết bị dạy học một cách phù hợp, hiệu quả trong dạy học hoá học.
Q. Đánh giá kết quả giáo dục trong Chương trình môn Hoá học như thế nào để giúp học sinh phát triển năng lực
Mục tiêu đánh giá kết quả giáo dục là cung cấp thông tin chính xác, kịp thời, có giá trị về mức độ đáp ứng yêu cầu cần đạt của chương trình và sự tiến bộ của học sinh để hướng dẫn hoạt động học tập, điều chỉnh các hoạt động dạy, quản lí và phát triển chương trình, bảo đảm sự tiến bộ của từng học sinh và nâng cao chất lượng giáo dục. Căn cứ đánh giá là các yêu cầu cần đạt về phẩm chất và năng lực được quy định trong Chương trình tổng thể và chương trình môn Hóa học. Phạm vi đánh giá là toàn bộ nội dung và yêu cầu cần đạt của chương trình môn Hoá học. Hình thức, phương pháp và công cụ đánh giá:
- a) Hình thức đánh giá: Kết hợp các hình thức đánh giá quá trình (đánh giá thường xuyên), đánh giá tổng kết (đánh giá định kì) đánh giá trên diện rộng ở cấp quốc gia, cấp địa phương và các kì đánh giá quốc tế bảo đảm đánh giá toàn diện,thường xuyên và tích hợp vào trong các hoạt động dạy và học của giáo viên và học sinh.
- b) Phương pháp đánh giá và công cụ đánh giá:
– Kết hợp đánh giá của giáo viên với tự đánh giá và đánh giá đồng đẳng của học sinh. Phối hợp đánh giá tình huống; đánh giá qua trắc nghiệm; đánh giá qua dự án và hồ sơ; đánh giá thông qua phản hồi và phản ánh; đánh giá thông qua quan sát. – Kết hợp đánh giá sản phẩm học tập (bài kiểm tra tự luận, bài kiểm tra trắc nghiệm khách quan, trả lời miệng, thuyết trình, bài thực hành thí nghiệm, dự án nghiên cứu,...) với đánh giá qua quan sát (thái độ và hành vi trong thảo luận, làm việc nhóm, làm thí nghiệm, tham quan thực địa,…).
Q. Để thực hiện tốt Chương trình môn Hoá học, cần những điều kiện gì?
- Môn Hoá học là một môn khoa học có sự kết hợp giữa líthuyết và thực nghiệm, vì vậy các điều kiện về cơ sở vật chất của chương trình hoá học mới cũng giống như chương trình hiện hành hiện nay. Các trường cần phải có các thiết bị dạy học tối thiểu đầy đủ, tạo điều kiện cho học sinh thực hiện các thí nghiệm và hoạt động trải nghiệm, tìm tòi, khám phá khi học môn Hóa học.
- Tuy nhiên, trong điều kiện thực tế hiện nay tùy vào điều kiện cụ thể của từng địa phương, có thể chuẩn bị một số thiết bị dạy học tối thiểu về dụng cụ và hoá chất, các đồ dùng trực quan như: hệ thống sơ đồ, biểu bảng, các học liệu điện tử có thể thay thế được thí nghiệm như sử dụng video thí nghiệm, thí nghiệm mô phỏng, thí nghiệm ảo,... với sự hỗ trợ của các phương tiện kĩthuật như máy tính, máy chiếu, internet và có một số phần mềm tính toán cơ bản; ...
- Đội ngũ giáo viên về cơ bản chỉ cần tập huấn bồi dưỡng lại một số kiến thức về Hoá lí và Hoá lí thuyết, kiến thức hoá học hữu cơ và hoá học vô cơ; đặc biệt về thuật ngữ hoá học, chương trình mới sử dụng thuật ngữ hoá học theo danh pháp IUPAC vì vậy GV sẽ có những bỡ ngỡ về việc sử dụng thuật ngữ mới trong thời gian đầu sau sẽ quen.
Q. STEM có phải là một phương phương pháp dạy học mới nhằm phát triển năng lực học sinh hay không?
STEM không phải là một phương phương pháp dạy học mà là một cách tiếp cận dạy học. Giáo dục STEM là cách tiếp cận liên ngành, lấy bối cảnh vấn đề gắn liền với đời sống thực, nhằm giúp học sinh vận dụng kiến thức, kĩ năng vào giải quyết vấn đề trong cuộc sống. Từ đó, học sinh có cơ hội hình thành và phát triển các phẩm chất và năng lực cần thiết cho cuộc sống. Môn Hóa học là một trong những môn thuộc lĩnh vực khoa học tự nhiên cho nên có nhiều cơ hội vận dụng cách tiếp cận giáo dục STEM vào dạy học.
Q. Thí nghiệm, thực hành đóng vai trò như thế nào trong môn Hóa học?
Thí nghiệm, thực hành đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong việc hình thành khái niệm, định luật Hóa học. Vì vậy, Chương trình môn Hóa học chú trọng rèn luyện cho học sinh khả năng tìm hiểu các thuộc tính của đối tượng Hóa học thông qua các nội dung thí nghiệm, thực hành dưới các góc độ khác nhau.
Q. Trong môn Hóa học, với những thí nghiệm khó, phức tạp, nguy hiểm hoặc không có điều kiện thực hiện trên lớp thì có những giải pháp nào để giúp học sinh có cơ hội trải nghiệm thí nghiệm giúp học sinh hình thành khái niệm, quy luật, định luật Hóa học?
Trong môn Hóa học, với những thí nghiệm khó, phức tạp, nguy hiểm hoặc không có điều kiện thực hiện trên lớp thì giáo viên tùy theo điều kiện thực tế để tổ chức cho HS thiết kế các mô hình hoặc giáo viên ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học bằng các thí nghiệm ảo, các phần mềm mô phỏng, các học liệu điện tử để giúp học sinh có cơ hội trải nghiệm thí nghiệm giúp học sinh hình thành khái niệm, định luật Hóa học.